Bài Mới

 

Tham gia vào trải nghiệm cầu nguyện trực quan trong Mùa Chay này với Nghệ thuật & Đức tin: Mùa Chay. Mỗi tuần, chúng tôi sẽ cung cấp một video bình luận về một tác phẩm nghệ thuật lấy cảm hứng từ Kinh thánh ngày Chúa nhật. Sử dụng những video này để có cái nhìn mới về mùa đổi mới tinh thần này qua lăng kính của nghệ thuật thiêng liêng.

Bài bình luận là của Daniella Zsupan-Jerome, trợ lý giáo sư về phụng vụ, dạy giáo lý và truyền giáo tại Đại học Loyola New Orleans. Cô có bằng cử nhân thần học của Đại học Notre Dame, bằng thạc sĩ về phụng vụ của Đại học St. John ở Collegeville, bằng thạc sĩ về tôn giáo và nghệ thuật của Trường Thần học Yale, và bằng tiến sĩ. về thần học và giáo dục từ Đại học Boston. Nền tảng độc đáo của cô ấy về đức tin và nghệ thuật mang đến một cách mới để quan sát Mùa Chay và hiểu mùa này ở cấp độ cá nhân hơn.

Giáo viên và giáo lý viên: Sử dụng các video này và các gợi ý hoạt động liên quan trong các lớp đào luyện đức tin của bạn trong Mùa Chay, Tam Nhật Thánh và Lễ Phục Sinh.

Các nhóm hoặc cá nhân đào tạo đức tin trưởng thành cũng có thể thực hiện trí tưởng tượng Inhã của họ bằng cách theo dõi các bài đăng trên blog Mùa Chay tại dotMagis[1], nơi cung cấp các cách sử dụng nghệ thuật như một phương tiện cầu nguyện cá nhân.

Đừng quên đón xem Nghệ thuật & Đức tin, một loạt câu chuyện tôn vinh những biểu hiện đức tin sáng tạo và Kết nối Chủ nhật để biết thêm thông tin về việc sử dụng các bài đọc hàng tuần trong lớp học của bạn.

 

Đôi khi trong cuộc xung đột giữa tinh thần và thế tục, chúng ta có thể thấy bàn tay của Thiên Chúa đang hành động. Trong bức tranh “Cuộc chiến giữa Lễ hội và Mùa Chay” (The Fight Between Carnival and Lent) của Pieter Brueghel, có một sự va chạm tương phản xảy ra tại ngôi làng Hà Lan thế kỷ 16 này. Gần trung tâm của sự hối hả và nhộn nhịp, một hai người kỳ lạ đang chuẩn bị đánh nhau. “Lễ hội hóa trang”, được đại diện bởi một người đàn ông tài giỏi cưỡi một chiếc thùng, đội mũ bánh nhân thịt và sẵn sàng hành động với một ngọn giáo chất đầy thịt lợn quay trên tay. “Mùa chay” đối mặt với anh ta, được nhân cách hóa bởi một người phụ nữ mắt trong veo nhưng hốc hác trên một chiếc xe kéo sơ sài, đội tổ ong trên đầu và giơ hai con cá đặt nằm trên một cái xẻng. Xung quanh cô ấy là những ổ bánh mì, bánh quy và một rổ ngọc trai.

Cuộc gặp gỡ này chia khung cảnh thành hai phần. Đằng sau Lễ hội hóa trang, chúng ta thấy niềm vui. Mùa Chay nổi lên từ giáo hội. Những bức tượng có mái che; một linh mục nghe xưng tội—mùa Chay đã bắt đầu.

Mắt chúng ta bị thu hút vào cái giếng ở trung tâm bức tranh. Một người phụ nữ ở đó bắt được hình ảnh phản chiếu của cô ấy trong nước. Đó là một khoảnh khắc của sự tĩnh lặng và trong sáng trong khung cảnh bận rộn này. Cái giếng gợi lên Bí tích Rửa tội. Người phụ nữ mời gọi chúng ta tự kiểm điểm chính mình, tựa như Mùa Chay mời gọi tất cả chúng ta trở lại suối nguồn để trở nên trọn vẹn hơn trong Đức Ki-tô.

Khi người phụ nữ này suy nghĩ, ba nhân vật ở phía bên kia giếng rẽ sang một hướng khác. Chúng ta thấy một cặp vợ chồng đi theo một gã hề với một ngọn đuốc. Họ đang đi theo một ánh sáng giả, một ánh sáng che khuất con đường của họ. Gánh nặng của người đàn ông đang mang và ngọn đèn tối tăm của người phụ nữ mang bên hông là những biểu tượng cho thấy họ đang đi sai đường.

Vào ngày đầu tiên của Mùa Chay này, chúng ta xức tro và nghe tiếng gọi trở về với Thiên Chúa. Con đường trở lại này có vẻ khó khăn, đáng sợ. Hướng nội như người phụ nữ bên giếng nước này có thể có nghĩa là xem xét kỹ lưỡng mọi thứ khiến chúng ta không thể sống một cuộc sống trọn vẹn nhất. Sẽ dễ dàng hơn để tránh điều này và đi theo gã hề đến những ánh sáng giả dối và những phiền nhiễu của thế gian. Tuy nhiên, chúng ta được trấn an: “Chúa là Đấng nhân từ và thương xót, chậm giận, giàu lòng nhân từ, và không khoan nhượng khi trừng phạt”.

Điều này dường như là một cái nhìn nghiêm khắc, nhưng cũng có thể là một cái nhìn chữa lành bên trong—nếu chúng ta tin cậy nơi Chúa.

Nguồn: https://www.loyolapress.com/catholic-resources/liturgical-year/lent/arts-and-faith-for-lent/
Tác giả: Daniella Zsupan-Jerome
Chuyển ngữ: Little Stream

[1] https://www.ignatianspirituality.com/tag/arts-faith-lent/

 

 Xem video tiếng Anh:

WHĐ – Sáng hôm 23.06.2023, Đức Thánh Cha đã dành cho các nghệ sĩ buổi tiếp kiến riêng tại Nhà nguyện Sistine, nhân cuộc gặp gỡ kỷ niệm 50 năm khai trương bộ sưu tập nghệ thuật hiện đại của Bảo tàng Vatican.

Sau đây là nội dung bài diễn văn của Đức Thánh Cha:

 

 

DIỄN VĂN ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
DÀNH CHO CÁC NGHỆ SĨ NHÂN DỊP KỶ NIỆM  50 NĂM KHAI TRƯƠNG
BỘ SƯU TẬP NGHỆ THUẬT HIỆN ĐẠI CỦA BẢO TÀNG VATICAN

Nhà nguyện Sistine
Thứ Sáu, ngày 23.06.2023

 

Chào buổi sáng và chào mừng anh chị em. Tại Nhà nguyện Sistine này, chúng ta được bao quanh bởi nghệ thuật… và bởi các nghệ sĩ: chính là anh chị em. Xin chào anh chị em!

Cảm ơn anh chị em vì đã nhận lời mời của tôi; tôi rất vui khi được ở bên anh chị em, bởi vì Giáo hội luôn có mối tương quan với các nghệ sĩ một cách vừa tự nhiên vừa đặc biệt. Là một tình bạn tự nhiên, bởi vì các nghệ sĩ coi trọng sự phong phú của sự hiện hữu của con người, của cuộc sống, và của thế giới, kể cả những mâu thuẫn và những khía cạnh bi thảm của nó. Sự phong phú này có nguy cơ biến mất khỏi tầm nhìn của nhiều chuyên ngành, vốn đáp ứng nhu cầu tức thời, nhưng lại khó có thể nhìn cuộc sống như một thực tại phức tạp và đa diện. Là nghệ sĩ, anh chị em nhắc nhở chúng tôi rằng chiều kích mà trong đó chúng tôi di chuyển, dù là vô thức, luôn là chiều kích của Thần Khí. Nghệ thuật của anh chị em giống như một cánh buồm căng tràn sức gió của Thần Khí và đẩy chúng tôi tiến về phía trước. Do đó, tình bạn của Giáo hội với nghệ thuật là một điều gì đó hết sức tự nhiên. Nhưng, đồng thời, đó cũng là một tình bạn đặc biệt, nhất là nếu chúng ta nghĩ về nhiều giai đoạn lịch sử mà chúng ta đã cùng nhau đi qua, và là một phần di sản của tất cả mọi người, dù là tín hữu hoặc không tín ngưỡng. Lưu tâm đến điều này, chúng ta hãy hướng tới một mùa hoa trái phong phú mới trong thời đại của chúng ta, được sinh ra từ bầu khí lắng nghe, tự do và tôn trọng. Mọi người cần những hoa trái ấy, những hoa trái rất đặc biệt ấy.

 

Romano Guardini đã từng viết rằng: “Trạng thái của người nghệ sĩ không khác gì trạng thái của một đứa trẻ và thậm chí trạng thái của một người có tầm nhìn xa trông rộng” (L’opera d’arte, Brescia, 1998, 25). Tôi thấy hai so sánh này rất thú vị. Đối với Guardini, “tác phẩm nghệ thuật mở ra một không gian mà chúng ta có thể bước vào, và ở trong đó, chúng ta có thể hít thở, di chuyển và gặp gỡ các vật thể và con người khi chúng mở ra trước mắt chúng ta” (sđd., 35). Chính trong cuộc gặp gỡ với nghệ thuật, các ranh giới trở nên linh hoạt hơn và những giới hạn trong kinh nghiệm và hiểu biết của chúng ta mở rộng hơn. Mọi thứ dường như cởi mở và dễ tiếp cận hơn. Chúng ta trải nghiệm tính tự phát của đứa trẻ tràn đầy trí tưởng tượng và trực giác của người nhìn xa trông rộng nắm bắt thực tế.

Nghệ sĩ là một đứa trẻ - tôi không có ý xúc phạm anh chị em - điều này có nghĩa là nghệ sĩ có được sự tự do để kiểm soát sự độc đáo, mới lạ và sáng tạo, và do đó mang đến cho thế giới những điều mới mẻ và chưa từng có. Khi làm như vậy, các nghệ sĩ bác bỏ ý kiến ​​​​cho rằng con người là “sinh vật hướng tới cái chết”. Chắc chắn là con người phải đối diện với cái chết, nhưng chúng ta không phải là sinh vật hướng tới cái chết, mà là sinh vật hướng tới sự sống. Một nhà tư tưởng vĩ đại như Hannah Arendt đã khẳng định rằng dấu ấn của con người là khả năng mang lại sự mới mẻ cho thế giới. Đây là một phần của sự phong phú của chúng ta như là con người: mang đến sự mới mẻ. Ngay cả trong tự nhiên, sự sinh sản mang lại sự mới mẻ khi mỗi đứa trẻ được sinh ra trên thế giới. Sự mở ra và mới mẻ. Với tư cách là nghệ sĩ, anh chị em đạt được điều này bằng cách khẳng định sự độc đáo riêng của mình. Trong các tác phẩm, anh chị em luôn đặt một thứ gì đó của bản thân mình, với tư cách là những hữu thể độc nhất giống với tất cả chúng tôi, vì ích lợi của việc sáng tạo một điều gì đó vĩ đại hơn. Với tài năng của mình, anh chị em mang lại một điều gì đó khác thường; anh chị em làm phong phú thế giới với một điều gì đó mới mẻ. Tôi nghĩ đến những lời trong sách Tiên tri Isaia khi Thiên Chúa phán: “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?” (Is 43, 19). Trong Sách Khải Huyền, Thiên Chúa cũng phán như vậy: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (21, 5). Do đó, sự sáng tạo của người nghệ sĩ có thể được xem là sự chia sẻ niềm đam mê sáng tạo của chính Thiên Chúa, niềm đam mê mà nhờ đó Ngài đã tạo dựng muôn vật. Anh chị em là những người chia sẻ giấc mơ của Thiên Chúa! Anh chị em có những đôi mắt biết quan sát và ước mơ. Chỉ nhìn thôi thì chưa đủ; chúng ta còn cần có khả năng ước mơ. Như một nhà văn Mỹ Latinh đã nói, con người chúng ta có hai con mắt: một để nhìn những gì chúng ta thấy, và một để nhìn những gì chúng ta hy vọng và mơ ước. Khi ai đó thiếu đi hai con mắt này, hoặc chỉ có thể nhìn mọi thứ bằng một mắt này hoặc một mắt kia, thì đã bị mất đi một thứ gì đó. Khả năng nhìn thấy những hy vọng và ước mơ… khả năng sáng tạo nghệ thuật… Chỉ nhìn thôi thì chưa đủ; chúng ta cũng cần phải ước mơ. Là con người, chúng ta khao khát một thế giới mới mà chúng ta sẽ không nhìn thấy trọn vẹn với đôi mắt của chính mình, nhưng chúng ta khao khát, chúng ta tìm kiếm, chúng ta mơ ước về thế giới mới đó.

 

Vì vậy, với tư cách là nghệ sĩ, anh chị em có khả năng mơ về những phiên bản mới của thế giới, để đưa sự mới lạ vào lịch sử. Phiên bản mới của thế giới. Đó là lý do tại sao Guardini cũng nói rằng anh chị em giống như những người có tầm nhìn xa trông rộng. Anh chị em có một chút giống với các vị ngôn sứ. Anh chị em có thể nhìn thấy sự vật ở cả chiều sâu và từ xa, giống như những người lính canh tập trung nhìn vào đường chân trời và phân định những thực tại sâu sắc hơn. Khi làm như vậy, anh chị em được mời gọi thoát ra khỏi sức hấp dẫn của vẻ đẹp bên ngoài và nhân tạo được cho là phổ biến hiện nay và thường đồng lõa với các cơ chế kinh tế tạo ra sự bất bình đẳng. Đó không phải là một vẻ đẹp thu hút, vì đó là một vẻ đẹp vô hồn, không có sức sống. Một vẻ đẹp giả tạo, mỹ phẩm, một lớp trang điểm che giấu thay vì biểu lộ. Trong tiếng Ý, từ “trang điểm” cũng có nghĩa là “đánh lừa”, vì luôn luôn có một chút lừa dối trong đó. Anh chị em muốn tránh xa vẻ đẹp ấy, thay vào đó, nghệ thuật của anh chị em là một nghệ thuật cố gắng hành động như một lương tâm phê phán xã hội, phô bày những sự thật hiển nhiên. Anh chị em muốn làm cho mọi người phải suy nghĩ, phải tỉnh táo; anh chị em muốn phơi bày thực tế ngay cả trong những mâu thuẫn của nó, cũng như trong những điều mà việc che giấu sẽ thoải mái và thuận tiện hơn. Giống như các vị ngôn sứ trong Kinh thánh, đôi khi anh chị em đối diện với những điều không thoải mái; chỉ trích những huyền thoại sai lầm, và những thần tượng mới ngày nay, những lời nói sáo rỗng, những cạm bẫy của chủ nghĩa tiêu thụ, những âm mưu quyền lực. Đây là một khía cạnh thú vị trong tâm lý của các nghệ sĩ: khả năng tiến về phía trước và vượt lên trên, trong sự căng thẳng giữa thực tại và ước mơ.

 

Anh chị em thường làm điều này với sự châm biếm, châm biếm là một đức tính tuyệt vời. Khiếu hài hước và châm biếm là hai đức tính chúng ta cần trau dồi hơn nữa. Kinh thánh chứa đầy những câu chuyện châm biếm, giễu cợt về tính tự mãn, bất lương, bất công và độc ác ẩn dưới vỏ bọc của quyền lực và thậm chí cả sự thánh thiêng. Anh chị em cũng có thể giúp để phân định lòng đạo đức chân chính, thường bị thể hiện cách sáo rỗng và tầm thường hóa.

 

Là những người nhìn xa trông rộng, những người nam nữ có sự phân định, có lương tâm phê phán, tôi cảm thấy anh chị em là đồng minh trong rất nhiều điều mà tôi canh cánh trong lòng, chẳng hạn như bảo vệ sự sống con người, công bằng xã hội, quan tâm đến người nghèo, chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, tình huynh đệ nhân loại phổ quát. Tôi quan tâm đến lòng nhân đạo của con người, chiều kích nhân văn của nhân loại. Vì đó cũng là đam mê cao cả của Thiên Chúa. Một trong những điều đưa nghệ thuật đến gần hơn với đức tin là việc cả hai đều có khuynh hướng gây ra sự xáo trộn. Cả nghệ thuật và đức tin đều không thể để mọi thứ đơn giản như chúng là: nghệ thuật và đức tin thay đổi, chuyển đổi, di chuyển, và biến đổi mọi thứ. Nghệ thuật không bao giờ có thể là liều thuốc gây mê; nghệ thuật mang lại bình an, nhưng không hề ru ngủ lương tâm, mà thức tỉnh lương tâm.

Là nghệ sĩ, anh chị em thường cố gắng khám phá chiều sâu của thân phận con người, những vực thẳm đen tối của phận người. Chúng tôi tất cả không phải là ánh sáng, và anh chị em nhắc nhở chúng tôi về điều này. Đồng thời, cần phải thắp lên ánh sáng hy vọng trong bóng tối của phận người, giữa sự ích kỷ và thờ ơ. Giúp chúng ta thoáng thấy ánh sáng, vẻ đẹp cứu độ.

Nghệ thuật luôn gắn liền với cảm nghiệm về cái đẹp. Như Simone Weil đã viết: “Cái đẹp quyến rũ xác thịt để vào được tâm hồn” (L’ombra e la grazia, Bologna, 193). Nghệ thuật chạm đến các giác quan để làm phấn chấn tinh thần, và nghệ thuật làm được điều đó thông qua cái đẹp, vốn phản ánh những điều tốt đẹp, công bằng và chân thực. Cái đẹp là dấu chỉ của sự hoàn hảo; Cái đẹp khiến chúng ta thốt lên một cách tự nhiên: “Ôiđẹp biết bao!” Cái đẹp làm cho chúng ta cảm thấy cuộc sống hướng đến sự viên mãn, trọn vẹn. Vì vậy, trong cái đẹp đích thực, người ta bắt đầu trải nghiệm lòng khao khát Thiên Chúa. Nhiều người ngày nay hy vọng rằng nghệ thuật có thể ngày càng trở lại với việc trau dồi cái đẹp. Tất nhiên, như tôi đã nói, cũng có một loại vẻ đẹp phù phiếm, giả tạo, hời hợt, thậm chí không thực. Vẻ đẹp thẩm mỹ.

 

Tôi tin rằng có một tiêu chí quan trọng để phân định sự khác biệt của vẻ đẹp, đó là sự hài hòa. Vẻ đẹp đích thực, thật ra là sự phản ánh của sự hài hòa. Các nhà thần học nói về tình phụ tử của Thiên Chúa, về tư cách làm con của Đức Kitô, nhưng khi mô tả Chúa Thánh Thần, họ nói về sự hài hòa: Ipse harmonia est. Thần Khí tạo nên sự hài hòa. Chiều kích nhân tính của tâm linh... Vẻ đẹp đích thực luôn là sự phản ánh của sự hài hòa. Nếu tôi có thể nói như vậy, hài hòa là đức tính hữu hiệu của cái đẹp, là tinh thần sâu xa nhất của cái đẹp, nơi Thần Khí Thiên Chúa, Đấng hài hòa vĩ đại của thế giới, đang hoạt động. Sự hài hòa tồn tại khi các yếu tố tuy khác biệt nhau nhưng vẫn hợp thành một thể thống nhất, khác với từng bộ phận và khác với tổng thể của các bộ phận. Điều này không hề dễ dàng; chỉ có Thần Khí mới có thể làm cho điều này trở nên khả thi: những khác biệt không trở thành xung đột, nhưng hòa nhập với nhau trong sự đa dạng, và sự hiệp nhất không phải là đồng nhất nhưng mở ra cho sự đa dạng. Như tại Lễ Ngũ Tuần, sự hài hòa đã làm nên những điều kỳ diệu này. Tôi thích nghĩ về Chúa Thánh Thần như là Đấng cho phép những sự xáo trộn lớn nhất xảy ra – hãy nghĩ về buổi sáng của ngày Lễ Ngũ Tuần – và sau đó tạo ra sự hài hòa. Một sự hài hòa nhưng không phải là sự cân bằng, bởi vì hài hòa được phát sinh trước hết từ sự mất cân bằng; hài hòa là một cái gì đó nhiều hơn là sự cân bằng. Sứ điệp này thật hợp thời biết bao! Chúng ta đang sống trong thời đại của các hình thức thực dân hóa ý thức hệ và xung đột gay gắt do phương tiện truyền thông điều khiển; một sự toàn cầu hóa tiêu chuẩn hóa mọi thứ cùng tồn tại với bất kỳ nhóm lợi ích cụ thể nào khép kín và thu mình lại.

Đây là nguy cơ của thời đại chúng ta. Thậm chí, Giáo hội có thể bị ảnh hưởng. Xung đột có thể diễn ra dưới sự giả vờ hiệp nhất, từ đó nảy sinh chia rẽ, bè phái và những hình thức tự kỷ ái mộ. Chúng ta càng cần phải làm cho nguyên tắc hài hòa hiện diện trong thế giới của chúng ta nhiều hơn và loại bỏ sự đồng nhất. Là nghệ sĩ, anh chị em có thể giúp chúng tôi nhường chỗ cho Thần Khí. Khi nhìn thấy công trình của Thần Khí, Đấng tạo ra sự hài hòa từ những khác biệt nhưng không phá hủy hoặc tiêu chuẩn hóa sự khác biệt mà đưa sự khác biệt vào sự hài hòa, chúng ta mới hiểu được cái đẹp thực sự là gì. Cái đẹp là tác phẩm của Thần Khí, Đấng tạo nên sự hài hòa. Anh chị em hãy để thiên tài nghệ thuật của mình theo đuổi tiến trình này!

 

Anh chị em thân mến, tôi rất vui khi có cuộc gặp gỡ hôm nay. Trước khi tạm biệt, tôi có một điều nữa muốn nói với anh chị em, vốn là một điều tôi rất tâm đắc. Tôi muốn xin anh chị em đừng quên những người nghèo, những người rất gần gũi với trái tim của Đức Kitô, những người bị ảnh hưởng bởi nhiều hình thức nghèo khó ngày nay. Người nghèo cũng cần nghệ thuật và cái đẹp. Một số người đang sống cuộc sống hết sức khó khăn, và do đó, họ thậm chí còn cần nghệ thuật và cái đẹp hơn nữa. Họ thường không có tiếng nói để làm cho mình được lắng nghe. Anh chị em có thể chọn trở thành thông dịch viên cho lời nài xin thầm lặng của họ.

Xin cảm ơn anh chị em, và một lần nữa, tôi khẳng định sự quý trọng của tôi dành cho anh chị em. Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng các công trình của anh chị em đáng giá với những người nam, nữ trên trái đất này, đồng thời tôn vinh Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, và là Đấng mà tất cả mọi người đều tìm kiếm, kể cả qua chứng tá của các tác phẩm nghệ thuật. Và cuối cùng, xin anh chị em hãy hiệp ý cầu nguyện cho tôi. Xin cảm ơn.

 

Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vatican.va (23. 06. 2023)

 

Bức hoạ Cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong sa mạc – Ivan Kramskoi

Bài đọc 1 sách Sáng Thế của Chúa Nhật tuần này mời gọi chúng ta trở lại với thuở ban đầu, về việc tạo dựng con người nam và nữ, và sự sa ngã nguyên thủy của họ, không chịu khuất phục trước sự cám dỗ của con rắn. Tác phẩm Đức Ki-tô trong sa mạc (Christ in the Desert) của Ivan Kramskoi đưa Chúa Giê-su trở lại chính sự khởi đầu này để đối mặt với những cám dỗ của chính mình trước khi bắt đầu tham gia vào chức vụ công khai.

Đức Ki-tô đang ngồi trong một khung cảnh khô cằn, sỏi đá. Ngồi giữa bụi đất, nơi mà từ đó chúng ta đã được tạo nên, Đức Ki-tô đang chiến đấu. Trận chiến của Ngài là tâm lý dữ dội. Khi ma quỷ cám dỗ Ngài với những suy nghĩ về sự thỏa mãn trần tục, quyền lực và một lối thoát dễ dàng hơn, Ngài nhớ về tội nguyên tổ, sự sa ngã mà A-đam và E-va đã không thể cưỡng lại. Lần này, Chúa Giê-su biết điều gì đang bị đe dọa? Mức độ nghiêm trọng của sự khác biệt giữa được hay mất thiên đàng hiện rõ trên khuôn mặt của Ngài.

Trong cái tĩnh mịch của khung cảnh khô cằn này, ta thấy đất trời giao hòa. Ở đằng xa, chúng ta thấy bầu trời đang ló dạng, một dấu hiệu hy vọng tinh tế rằng A-đam Mới (Chúa Giê-su) sẽ đưa loài người trở lại mối quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa. Tuy nhiên, nửa dưới của hình ảnh là đất đá. Một biểu tượng về cuộc đấu tranh của con người, về sự cực nhọc mà con người đã phải chịu đựng sau khi Sa Ngã, và về những thực tế đau khổ không thể tha thứ của con người nếu bị tách rời khỏi ơn sự sống của Thiên Chúa. Đức Ki-tô cúi mặt xuống; Ngài bị cuốn vào cuộc đấu tranh này, cam kết đi vào chiều sâu của nó. Ở bên phải của Ngài, nơi bầu trời chạm vào sa mạc, hậu cảnh là màu tối nhất gợi lên những chiều sâu này. Tuy nhiên, ở bên trái của Ngài, địa hình đá vươn tới bầu trời sáng, tìm kiếm ánh sáng của một sự tồn tại với ân sủng. Và ở giữa, Kramskoi đặt Chúa Giê-su. Ngài là cầu nối giữa bóng tối và ánh sáng này.

Nhưng việc làm nhịp cầu của Ngài sẽ không dễ dàng. Gánh nặng của quá trình này hiện rõ trên khuôn mặt, đè nặng xuống vai và xuyên qua đôi chân trần của Ngài. Quyết tâm của Ngài lên đến đỉnh điểm ở trung tâm của hình ảnh, trong hai bàn tay anh ấy nắm chặt lấy nhau, hợp nhất với nhau trong một cử chỉ cầu nguyện. Sức mạnh tỏa ra từ đôi bàn tay này, bàn tay cầu nguyện một lần nữa hợp nhất trời và đất khi Ngài chống lại cám dỗ và trung thành với con người của mình và những gì Ngài được kêu gọi thi hành.

Vào Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay này, Chúa Giêsu- sức mạnh trong lời cầu nguyện cũng là một món quà khích lệ cho cuộc hành trình của chúng ta. Một món quà để mang theo chúng ta vào những vùng sa mạc của chính chúng ta, nơi đó tiếng nói của sự cám dỗ thốt ra những lời sai trái. Đôi bàn tay hợp nhất trong lời cầu nguyện này nhắc nhở chúng ta chống lại sự cô lập mà những lời dối trá mà ma quỷ mang lại, và ở trong sự nắm chặt ân sủng khi kết hợp với Thiên Chúa.

Tác giả: Daniella Zsupan-Jerome
Chuyển ngữ: Little Stream

 

 

                         Bức tranh “Cuộc biến hình” của hoạ sĩ Raphael

 

 

Trong Cuộc biến hình (Transfiguration), Raphael kể một câu chuyện về sự mặc khải, đức tin và sự chữa lành. Họa sĩ cho thấy khoảnh khắc Mặc khải trên Núi Ta-bo làm sáng tỏ khung cảnh cuộc chữa lành một cậu bé bị quỷ ám như thế nào. Đó là câu chuyện trong Tin Mừng ngay sau biến cố Biến Hình của Chúa Giê-su. Thiên đàng chiếu sáng khung cảnh phía dưới khi Đức Ki-tô, được bao bọc bởi đám mây sáng và có Mô-sê và Ê-li-a ở hai bên, là đỉnh điểm của khung cảnh. Ở phía dưới, chúng ta thấy các môn đệ và thậm chí, chúng ta thấy những người khác đang tụ tập để xem cậu bé bị quỷ ám và gia đình của cậu. Từ trên xuống dưới, màu sắc chuyển từ ánh sáng mát mẻ, thiên đường sang tông màu đất, ấm hơn.

Raphael cho chúng ta thấy các môn đệ khi họ gặp gia đình tuyệt vọng. Khuôn mặt cậu bé nhăn nhó vì đau khổ. Thân thể cậu bé gần như bị xé toạc, một tay giơ lên và một tay hạ xuống, như thể cậu bé bị kéo về cả Thiên đàng và Địa ngục. Raphael mô tả gia đình như một nhóm tập trung. Cường độ và bàn tay hướng lên của họ báo hiệu hành động đức tin thống nhất của họ. Đối diện với họ, các môn đệ bị choáng ngợp bởi thách thức—khuôn mặt và cơ thể của các môn đệ hướng về mọi phía, thể hiện sự lộn xộn của họ.

Giữa các môn đệ và gia đình, Raphael đặt một hình tượng phụ nữ độc nhất. Đức Ki-tô thống trị bức tranh ở trên cao, nhưng người phụ nữ này đứng thứ hai về tầm quan trọng trong bức tranh. Người phụ nữ là trung tâm trong câu chuyện của cậu bé— cô ấy là một phần của khung cảnh trong tranh nhưng cô ấy không phải là một nhân vật trong câu chuyện Tin Mừng. Màu sắc mát mẻ và tươi sáng của hình ảnh người phụ nữ, giống như hành động thần linh ở trên đỉnh bức tranh, khiến người phụ nữ ở vị trí phía dưới cũng trở nên khác biệt. Người phụ nữ là một biểu tượng mời gọi chúng ta đi vào ý nghĩa sâu sắc hơn.

Trong tác phẩm của Raphael, hình thể nhân vật nói với chúng ta một cách sâu sắc. Cơ thể của người phụ nữ này bị xoay, vặn người uốn khúc đồng thời thu hút các môn đệ, gia đình và chúng ta, là những khán giả. Trong cái xoay mình của người phụ nữ là sự kết hợp của một hướng gặp một hướng khác; đến lượt người phụ nữ là một sự thay đổi hướng đi, một con đường mới.

Người phụ nữ là đức tin, đáp lại mặc khải của Thiên Chúa trên cao. Người phụ nữ mang đến cho các môn đệ thành phần quan trọng còn thiếu trong công việc của họ. Người phụ nữ là cầu nối giữa hai câu chuyện.

Cơ thể bị xoay và vặn khúc của người phụ nữ cũng mang đến sự chuyển đổi tâm trí, sự thay đổi của trí và tâm. Người phụ nữ vọng lại những lời thiêng liêng từ trên cao: “Đây là Con yêu dấu của Ta; hãy nghe lời Người.” Với niềm tin và ân sủng, tâm hồn của chúng ta cũng có thể quay lại.

 

Tác giả: Daniella Zsupan-Jerome
Chuyển ngữ: Little Stream

 

Video tiếng Anh

 

 

laciviltacattolica.it, Gustav Schorghofer, 

Gần đây, Đức Phanxicô trả lời thư cho một nhóm nghệ sĩ gởi cho ngài, ngài xin Chúa chúc lành cho họ vì họ đã “làm cho chúng ta hiểu cái đẹp là gì, và không có cái đẹp thì không thể hiểu Tin Mừng được.” Nhưng chúng ta đang nói về cái đẹp nào đây?

Tại sao bức thư lại quan trọng?

Bức thư đưa ra một suy tư: khi nói đến cái đẹp, thì chúng ta phải đặt câu hỏi vượt ra ngoài cái đẹp, cũng như một lời tuyên xưng đức tin: điều gì mang lại ý nghĩa cho đời sống mỗi người và đời sống của một cộng đoàn? Điều gì mang lại sự trọn vẹn cho cuộc sống?

Vì khi nói về cái đẹp trong bối cảnh giáo hội, trong đó chúng ta thường đề cập đến nghệ thuật trong lãnh vực này. Nhưng Đức Phanxicô nói Giáo hội phương Tây đã làm mất nhiều khía cạnh về ý nghĩa cái đẹp, cũng như mất mối quan hệ với nghệ thuật đương đại.

Một tác phẩm của họa sĩ Francis Bacon (1909-1992)

Tuy nhiên, nghệ thuật thế kỷ 20 đã dạy để chúng ta nhận ra cái đẹp trong nhiều thứ, khám phá ngay cả nơi trước đây chỉ những thứ bụi bẩn và chất thải, trống rỗng và im lặng mới được cho thấy.

Vẻ đẹp, do đó, không chỉ đơn giản là hiện tại và có sẵn, mà phải được công nhận với lòng kiên nhẫn và mong chờ. Đối với Đức Phanxicô, điều này trùng khớp chính xác với ánh mắt của Chúa Giêsu Kitô, với cách nhìn thế giới của Ngài và với ưu tiên Ngài dành cho người nghèo, người sống bên lề, người thấp bé thiệt thòi. Chỉ khi cái đẹp được cảm nhận nơi những người này, món quà cuộc sống mới được nhận ra trong các môi trường này.

Do đó, nhiệm vụ to lớn của người kitô hữu chắc chắn là học cách nhận thức nghệ thuật đương đại ngày càng nhiều hơn trong bối cảnh của một chủ nghĩa thần nghiệm kitô giáo. Có một nguy cơ là hiện tượng cái đẹp bị tách ra khỏi cái tốt, như thế phải không được đánh mất cái nhìn về những người bị đau khổ, bị sống bên lề: không có một “khái niệm thẩm mỹ” mà quên đi lòng trắc ẩn.

Đâu là các câu hỏi đề cập đến trong bức thư?

“Cái đẹp cứu thế giới” (F. Dostoevskij): Thế giới sẽ thực sự thỏa hiệp được không?

Nét đẹp luôn dễ chịu? Và bạn sẽ cảm nhận như thế nào với đau khổ, với cái chết?

Khám phá cái đẹp

Làm thế nào để thế giới được cứu?

Giáo hội phương Tây đã làm mất nhiều khía cạnh về ý nghĩa cái đẹp, cũng như mất mối quan hệ với nghệ thuật đương đại.

Văn hào Nga Dostoevsky đã nói: “Cái đẹp sẽ cứu thế giới”. Nhưng cái đẹp nào? Cái đẹp mà truyền thống công nhận và đánh giá cao? Các tác phẩm nghệ thuật của thế kỷ 20 dạy cho chúng ta ý nghĩa của một cái đẹp khác biệt và mới mẻ. Đó là sống trong một cái đẹp dành cho người nghèo và những người bị ruồng bỏ, những người sống bên lề và bị lãng quên. Chỉ khi cái đẹp được cảm nhận nơi  những người này, món quà cuộc sống mới được nhận ra trong các môi trường này.

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch