BÁNH THIÊN SỨ, NAY PHÀM NHÂN HƯỞNG THỤ

 

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.

 

 

Chúng ta cùng đọc Lời Chúa:

 

12 Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu? “13 Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó.14 Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta.”16 Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua (Mc 14,12-16).

 

Cả ba thánh sử của Tin Mừng nhất lãm đều nhắc tới việc Chúa Giê-su truyền các môn đệ chuẩn bị bữa tiệc Vượt Qua (x.Mc 14,12-16; Mt 26,17-19 và Lc 22,7-13). Thánh sử Mác-cô mở đầu bài Tin Mừng hôm nay với bối cảnh thời gian: Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua”.

Chúng ta cùng tìm hiểu hai bối cảnh thời gian này qua giải thích của cha Vũ Phan Long: “Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua. Theo truyền thống Kinh Thánh, lễ Vượt Qua (Pesach) được cử hành vào chiều ngày 14 Nisan (“Nisan” là tháng thứ nhất của năm) và chính ngày lễ là 15 Nisan, còn lễ Bánh Không Men (lễ Matzoth), kéo dài thành bảy ngày, lại bắt đầu vào đúng ngày 15 Nisan. Vì hai đại lễ này quá gần nhau, chẳng mấy chốc lễ Bánh Không Men đã được gọi là lễ Vượt Qua, và kéo dài trong bảy ngày và bắt đầu với đêm lễ Vượt Qua, và phụng vụ cũng gọi đêm lễ Vượt Qua ấy là “lễ Bánh Không Men”. Chiên và bánh không men là lương thực biểu tượng của lễ mùa xuân. Cả hai thứ này nói lên sự tái sinh và đời sống mới.

Mác-cô kể tiếp rằng: “Các môn đệ thưa với Đức Giê-su: Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”. Chúa Giê-su trả lời như thế nào? “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó”. Các môn đệ ra đi và sẽ gặp một người, mà danh tính của người này không được thánh sử chú ý tới. Ngoài ra, dấu hiệu để các môn đệ gặp người này không có gì đặc biệt, mà mang dấu hiệu đời thường. Đó là một người mang vò nước thì ta có thể gặp bất cứ lúc nào trong Giêrusalem. Dù chẳng có gì đặc biệt, nhưng dấu hiệu này chỉ cho chúng ta thấy rằng, hành trình đưa Đức Giêsu đến cuộc Thương Khó được tiên liệu đến từng chi tiết.

Khi các môn đệ gặp người đó, các ông sẽ nói lời của Chúa nhắn gởi: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta”. 

Như thế, Chúa đã chuẩn bị sắp xếp mọi thứ cho bữa tiệc cuối cùng với các môn đệ. Một sự chu đáo của Đấng yêu thương. Chúa nói tới căn phòng rộng rãi ở trên lầu, nơi bàn tiệc cần được các môn đệ dọn ra. Để hiểu được nơi chốn này, chúng ta đọc lời giải thích của Barclay: “Các căn nhà lớn của dân Do Thái có những phòng cao, các căn nhà ấy như có một chiếc hộp nhỏ xếp chồng trên một chiếc hộp lớn vậy. Chiếc hộp nhỏ hơn đó là phòng cao, có cầu thang ở bên ngoài để đi lên, nên người ta không cần phải đi qua phòng lớn bên trong nhà. Phòng cao có nhiều công dụng. Nó có thể dùng làm phòng kho, hoặc dùng làm nơi suy gẫm, làm chỗ nghỉ khi nhà có khách. Nhưng đặc biệt nhất đó là nơi để một Rabbi dạy dỗ các môn đệ thân tín. Chúa Giêsu đã làm theo thói quen các Rabi Do Thái vẫn thường làm”.

Ngoài ra, về chi tiết lớn nhỏ của căn phòng ăn tiệc, cha Vũ Phan Long giải thích như sau: “Khi cử hành lễ Vượt Qua, ít ra có khoảng mười người họp lại với nhau, nên sách Mishna quy định là phải có một không gian 10×10 “khuỷu tay” (tức khoảng 23m2). Khi ăn tiệc, người ta nằm dài để diễn tả là dân chúng đã ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và đã được tự do; ngay cả người nghèo nhất cũng ăn tiệc Vượt Qua trong tư thế này”.

Vâng lời Chúa dạy, hai môn đệ trong số các ông đã lên đường vào thành. Hai ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua. Chúng ta thấy tinh thần vâng lời của môn đệ tương hợp với tinh thần vâng lời của Chúa Giê-su thi hành ý muốn của Cha trên trời. Qua đó hai môn đệ trở nên người thân của Chúa Giê-su trong gia đình. Thánh sử Mác-cô diễn lời của Chúa: “Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,34-35).

Ngoài ra, ở đây có một sự khác biệt giữa Mác-cô và Mát-thêu. Trong khi Mác-cô chỉ nhắc đến hai môn đệ vâng lời Chúa thi hành việc này, thì Mát-thêu lại nhắc đến tất cả các môn đệ đều vâng lời Chúa và thực hiện việc chuẩn bị lễ Vượt Qua: “Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy: Thầy nhắn: thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy” (Mt 26,18).

Sau khi các môn đệ đã chuẩn bị lễ vượt qua như Chúa Giê-su truyền xong, Mác-cô đưa ra một bối cảnh mới. Đó là tại bàn tiệc.

Chuyện gì xảy ra? Đức Giê-su báo Giu-đa sẽ phản bội Ngài: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy”. Bàn tiệc đang được mừng vui, thì một tin không ai chờ đợi lại đến trong căn phòng. Tin này lại hướng về chính Chúa, Đấng bị nộp, và hướng về một người trong nhóm mười hai, kẻ sẽ phản bội và nộp Chúa.

Cả căn phòng choáng ngợp một sự nặng nề của sự buồn rầu thảm não. Thánh sử Mác-cô diễn tả rằng: Các môn đệ đâm ra buồn rầu”. Sự buồn rầu của một điều không thể tưởng tượng mà lại có thể xảy ra. Sự buồn rầu của chính nội bộ có kẻ bội phản mà chưa “ló dạng”. Vì thế, các ông lần lượt hỏi Người: “chẳng lẽ con sao- mêti egô eimi?”. Hầu hết các ông không biết tới hành động trong tương lai của mình. Các ông hỏi Chúa với một niềm hy vọng là Chúa sẽ trả lời: “không phải anh đâu”. Nếu đọc câu truyện đến đây, hôm nay chúng ta cũng được mời gọi suy nghĩ về chính chúng ta. Chúng ta có thuộc về nhóm người có kẻ phản bội Chúa không? Chúng ta sẽ hỏi Chúa như các môn đệ Chúa hỏi ngày xưa? Có lẽ như các môn đệ ngày xưa, chúng ta bất an và chẳng biết ai trong nhóm là người phản bội Chúa.

Trước bầu khí nặng nề đó, Chúa Giê-su đã lên tiếng tiếp và mở ra một dấu hiệu, để kẻ phản bội “ló dạng”: “Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”. Sự bội phản và bán đứng Chúa trở thành câu truyện xấu thuộc về bóng đêm được truyền từ thế thệ này sang thế hệ khác. Biết bao bình luận, biết bao cảnh tỉnh từ biến cố đó. Một hiền sĩ đã nói về sự kiện Giu-đa bán chúa: “Bởi lẽ Giuđa rao bán Chúa, chúng ta hãy mua bằng giá trái tim mình”.

Đến đây, Mác-cô tiếp tục đưa người đọc chiêm ngắm khung cảnh tiếp theo. Đó là việc Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thể.

 

 

22 Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.”23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này.24 Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người.25 Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.”

26 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu (Mc 14,22-26).

 

Phần này kể về việc Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thể. Biến cố trọng đại này, cũng được thánh Mát-thêu, thánh Luca cùng thánh Phao-lô nhắc đến (x. Mt 26,26-29; Lc 22,19 -20; 1Co 11,23 -25). Khung cảnh của câu chuyện là: “đang bữa ăn” và bữa ăn này nằm trong bầu khí của lễ Vượt Qua. Như thế, khung cảnh tiệc Vượt Qua với chiên bị giết có ý hướng về chính Chúa Giêsu – con chiên hiền lành bị giết và hiến tế.

Trước khi suy niệm bài Tin Mừng, chúng ta đọc lời suy tư của Vũ Văn An: “Các lời tiên đoán phản bội và sai phạm trên tạo nên cái khung nhức nhối quanh thời khắc chủ chốt của bữa ăn Vượt Qua. Sử dụng các biểu tượng sống động, không thể nào xóa nhòa, Chúa Giêsu cho các môn đệ hay ý nghĩa cái chết của Người. Bánh bẻ ra là thân xác Người được trao ban cho họ; chén đổ ra là máu của Người, “máu giao ước” cung hiến ơn tha thứ và tình yêu không bao giờ cạn dành cho tất cả. Trọn thừa tác vụ của Chúa Giêsu, mọi lời của sự thật giải thoát, mọi đụng chạm chữa lành, mọi đối kháng bất công, đều được tinh chế ở đây trong bánh và chén rượu, trong thân xác và máu huyết Chúa Giêsu trao ban trọn vẹn cho thế giới”.

Đi vào đoạn văn, chúng ta thấy trong phần đầu về bánh là một chuỗi hành động của Chúa:

– Cầm lấy bánh.

– Dâng lời chúc tụng.

– Bẻ ra.

– Trao cho các môn đệ.

– Nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”.

 

Phần thứ hai về chén, cũng có một chuỗi hành động tương tự:

– Cầm chén rượu.

– Dâng lời tạ ơn.

– Trao cho các môn đệ.

– Bảo các môn đệ: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”.

 

Trong cả hai phần đều có lời chúc tụng hay lời tạ ơn. Điều đó diễn tả tâm tình cầu nguyện của Chúa Giê-su. Cả hai đều do Chúa Giê-su thực hiện. Ngài chính là trung tâm của bữa tiệc.

Ngài là chủ bữa tiệc và Ngài chủ động việc bẻ bánh và trao ban (người chủ nhà thường làm trong lễ Vượt Qua).

Cũng vậy, là chủ bữa tiệc Chúa Giê-su chủ động rót đầy chén rượu, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và trao cho các người hiện diện trong bàn tiệc.

Như thế, hai việc “bẻ và trao bánh” cùng “rót rượu và trao rượu” diễn tả tinh thần hy tế của Chúa Giê-su. Ngài làm hai hành động này để diễn tả tinh thần của Con Chiên Hiền Lành, của người Tôi Tớ khiêm tốn của Thiên Chúa. Đó là tinh thần “hiến mình cho người mình yêu”.

Đọc lời của Chúa Giê-su, chúng ta thấy bữa tiệc Vượt Qua đã thực sự đi vào ý nghĩa trọn vẹn. Thay cho chiên Vượt Qua là chính Xác Thịt của Chúa Giê-su, thay cho chén rượu bình thường là chính Máu của Ngài.

 

Lời tạ ơn đã được Chúa cất lên để làm cho bữa tiệc được sống động và mang ý nghĩa sâu xa nhất của bí tích Thánh Thể: Huyền nhiệm tạ ơn. Thật vậy, “Tạ Ơn” đã thành tựa đề chính của bữa tiệc cuối cùng. Giáo Hội đã đón nhận bữa tiệc này, và với Chúa Ki-tô, mỗi ngày ở khắp mọi nơi trên hoàn cầu, Giáo Hội tiếp tục cử hành bữa tiệc Tạ Ơn này.

Trong bữa tiệc Vượt Qua mới – bữa tiệc Tạ Ơn, Chúa Giê-su là trung tâm điểm. Từ nơi Ngài đã vang lên lời tạ ơn, từ nơi Ngài các cử điệu đã diễn ra với một nghi thức thật ý nghĩa.

 

Của lễ mà Chúa Giê-su trao ban chính là Xác Thịt và Máu của Ngài. Xác Thịt này là Xác Thịt sống động của Chúa, là chính Chúa. Máu kia chính là Máu của cuộc sống, cuộc sống của Ngài, là chính Chúa. Xác Thịt và Máu của Chúa hướng đến cái chết của Chúa.

 

Ngoài ra, Chúa cũng nói với các môn đệ hãy rao giảng cái chết của Chúa, mỗi lần cử hành bữa tiệc Tạ Ơn: “Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1Cr 11,26).

 

Lời của Chúa nói trong bữa tiệc cuối cùng đã làm cho buổi tối hôm đó tìm thấy ý nghĩa trọn vẹn ở chính nơi cái chết của Chúa. Của lễ Chúa trao ban chính là Xác Thịt của Chúa, Xác Thịt hiến dâng và Máu đổ ra trong cái chết. Cái chết này Chúa sẵn sàng đón nhận vì chính các môn đệ, những người mà Chúa ban cho hai của lễ kia. Xác Thịt Chúa được bẻ ra và được hiến dâng vì anh em. Máu được đổ ra vì anh em. Cái chết của Chúa Giê-su thật là tốt cho các môn đệ. Cái chết của Chúa là cái chết đem lại ơn cứu rỗi.

 

Cha Michelini suy tư như sau: “Trong bữa tiệc ly của Chúa Giêsu nổi bật yếu tố này: Giuđa trao nộp Chúa. Nhưng Chúa Giêsu, trong đêm bị phản bội, đã không thu hồi món quà của Ngài, đã ban tất cả những gì Ngài có thể trao: thân mình Ngài và máu Ngài (1Cor 11). Ngôi Lời, Chúa Con, đã dâng hiến ngôi vị thần linh của mình, dù là Thiên Chúa nhưng Ngài đã không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa (Pl 2,6). Giờ đây Ngài trao ban chính bản tính nhân loại, là thân xác Ngài, bởi vì trong thân xác này mà Ngôi Lời đã làm người. Bằng cách thức này, Chúa Giêsu trao ban tất cả chính mình, không giữ lại điều gì”.

 

Đi sâu hơn, chúng ta dừng lại ở cụm từ “Giao Ước”. Barclay đã giải thích như sau: Từ giao ước là một chữ rất thông thường trong tôn giáo Do Thái. Nền tảng của Do Thái giáo là Thiên Chúa đã lập một giao ước với dân Israel. Từ này có nghĩa là một sự dàn xếp, trả giá, một hợp đồng hai chiều. Việc thừa nhận giao ước cũ được nói rõ trong Xuất hành 24,3-8. Theo đoạn sách đó chúng ta thấy giao ước hoàn toàn tùy thuộc việc dân Israel tuân giữ luật. Nếu luật bị vi phạm thì giao ước cũng bị vi phạm, và mốì liên hệ giữa Thiên Chúa với dân Israel sẽ tan rã. Đây là một mối giao hảo hoàn toàn tùy thuộc luật và việc tuân giữ luật ấy. Thiên Chúa là vị thẩm phán. Vì không hề có ai giữ trọn luật nên phần khiếm khuyết luôn luôn ở về phía dân chúng. Nhưng Chúa Giêsu phán “Ta phê chuẩn và ban hành một giao ước mới, một mối liên hệ, một hợp đồng mới giữa Thiên Chúa với loài người. Nhưng giao ước này không lệ thuộc vào luật mà tùy thuộc tình yêu. Nói khác đi, Chúa Giêsu muốn bảo rằng “Việc ta đang làm đây để chứng minh cho các ngươi thấy Thiên Chúa yêu thương các ngươi như thế nào”. Loài người không chỉ đơn giản ở dưới luật của Thiên Chúa. Vì điều Chúa Giêsu đã thực hiện, họ mãi mãi ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là yếu tính của những gì Tiệc Thánh nói lên với chúng ta”.

 

Ngoài ra, chúng ta chú ý đến cụm từ “vì anh em, vì muôn người” được nhắc tới trong lời Chúa nói. Thánh sử Luca viết: “Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20). Mác-cô thì dùng cụm từ vì muôn người“Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14,24). Thánh sử Mát-thêu thì dùng cụm từ cho muôn người được tha tội“Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Còn thánh Phao-lo thì viết: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11,24).

 

Như thế, trong bữa tiệc Thánh Thể này, Chúa Giê-su hướng về các môn đệ và hướng về muôn người, những kẻ Ngài yêu thương và Chúa trao ban Xác Thịt và Máu của Ngài như là của lễ tình yêu cao quý.

 

“Vì anh em” và “máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Những lời này của Chúa đưa chúng ta đến với hình ảnh của người Tôi Tớ của Thiên Chúa (x. Is 53,4-5. 6-7. 10-12).

 

Cái chết của Chúa, Xác Thịt hiến dâng và Máu đổ ra của Chúa, trở thành của lễ đền tội nhân loại. Chúa “vì chúng ta”, nên Ngài đã lập giao ước mới để làm trọn vẹn giao ước cũ trên núi Xi-nai mà ngày xưa Mô-sê đã đón nhận từ Thiên Chúa. Giao ước mới này chứa đựng Máu của Đấng chịu đóng đinh đổ ra vì muôn người.  “Đức Ki-tô chịu chết vừa là hy tế Vượt Qua hoàn tất việc cứu độ chung cuộc loài người (x.1Cr 5,7; Ga 8,34-36), vì “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29) (x.1Pr 1,19), vừa là hy tế của Giao Ước Mới (x.1Cr 11,25) cho con người hiệp thông lại với Thiên Chúa ( x.Xh 24,8), bằng cách giao hòa con người với Thiên Chúa nhờ “máu được đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28) (x.Lv 16,15-16)” (Sách GLHTCG số 613).

 

Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương và luôn thành tín, đã tha thứ cho dân Ngài và đã đem lại trật tự mới với giao ước mới. (x.Gr 31,31-34).

 

Với Máu và Thân Xác của mình, Chúa Giê-su tặng ban những điều tốt đẹp nhất cho chương trình mới, giao ước mới của Thiên Chúa đối với nhân loại, và chuẩn bị cho ơn cứu rỗi của ngày cuối cùng: Nhân loại được đón nhận ơn tha thứ của Chúa, hoà giải với Chúa và được hiệp nhất với Ngài trong một cộng đoàn.

 

Chúa Giê-su, qua chén chúc phúc Ngài trao ban, trở nên Người Trung Gian của Giao Ước Mới. Qua Chúa, Tôi Tớ của Thiên Chúa, Đấng đã chịu tội thay cho nhân loại và hiến dâng chính mình, mà một trật tự mới của Thiên Chúa đã được hình thành:

 

“Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã gọi ngươi,
vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta.
Ta đã nắm tay ngươi,
đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân,
làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,

để mở mắt cho những ai mù loà,
đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ,
dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm” (Is 42,6-7).

 

Chúa Giê-su không chỉ nói lên sức mạnh cứu rỗi, mà Ngài còn ban tặng sức mạnh cứu rỗi này trong chính Xác Thịt và Máu của Ngài như là lương thực: “Chúa đã bẻ tấm bánh và trao cho họ”, cũng thế Chúa đã trao ban chén rượu. Hoa quả của ơn cứu rỗi không chỉ tương hợp với niềm tin vào Chúa, mà còn được diễn tả qua việc đón nhận Mình và Máu Thánh của Ngài.

 

Khi Chúa bẻ bánh và trao bánh là chính Xác Thịt Ngài, Chúa nói: “Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Lời này cũng được dùng cho chén rượu là chính Máu Ngài: “Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11,25).

 

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết rằng: Bí tích Thánh Thể Chúa Giê-su thiết lập sẽ là ‘lễ tưởng niệm’ (1Cr 11,25) hy tế của Người. Người hội nhập các tông đồ vào lễ hiến dâng của Người và yêu cầu họ lưu truyền hy lễ này mãi mãi (x.Lc 22,19). Như thế, Đức Giê-su đặt các tông đồ làm tư tế Giao Ước mới: ‘Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để trong chân lý, họ cũng được thánh hiến’ (Ga 17,19) (x.Cđ.Trente: DS 1752;1764) ” (số 610).

 

Trong Giáo Hội tiên khởi, việc cử hành bí tích Thánh Thể đã được sống động. Sách Công Vụ đã ghi lại: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng…Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2,42.46).

 

Ngoài ra, các tài liệu thời đầu tiên của Giáo Hội Tiên Khởi nhắc đến việc cử hành bí tích Thánh Thể. Qua đó, giúp chúng ta có cái nhìn lịch sử và nhận ra được tinh thần sống động Mầu Nhiệm Thánh Thể và Vượt Qua của Chúa Giê-su ngay từ những ngày đầu tiên. Chúng ta đọc lại một số tài liệu cổ nhắc tới Bữa tiệc tạ ơn, bí tích Thánh Thể.

Sách Didachè hay “giáo lý của 12 tông đồ” là một cuốn sưu tập nhỏ của “giáo lý Do thái – Kitô giáo” gồm 16 chương. Có nguồn gốc từ các cộng đoàn tại Antiokia Syria, được viết cho các Kitô hữu gốc dân ngoại vào cuối thế kỷ I hay đầu thế kỷ II. Tác phẩm này được khám phá vào năm 1873 tại Constantinople. Didachè để lại cho chúng ta chứng từ đầu tiên liên quan đến những kinh để “tạ ơn” (eucharistia) trong hai chương 9 và 10. Còn chương 14, 1 thì cho chúng ta chứng từ về ngày Chúa nhật, ngày Hội Thánh quy tụ lại để bẻ bánh và tạ ơn.

 

  • Didachè 9,1-5:

 

“Về vấn đề Lễ tạ ơn (eucharistia),

hãy tạ ơn như thế này :

Trước hết vì ly rượu :

lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha

vì cội nho thánh thiện của Đavít, tôi tớ Cha

mà Cha đã mạc khải cho chúng con,

nhờ Đức Giêsu, tôi tớ Cha !

Chúc tụng Cha vinh hiển đến muôn đời ! Amen !

Rồi vì tấm bánh đã được bẻ ra:

Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha,

vì sự sống và sự hiểu biết

mà Cha đã mạc khải cho chúng con,

nhờ Đức Giêsu, tôi tớ Cha!

Chúc tụng Cha vinh hiển đến muôn đời ! Amen !

Cũng như tấm bánh được bẻ ra đây,

Trước tiên được gieo vãi trên khắp ruộng đồng,

giờ được thu lượm và trở thành một tấm bánh

thì xin cho Hội thánh Cha từ muôn phương

được tụ họp về trong nước Cha,

Chúc tụng Cha vinh hiển

và uy quyền đến muôn đời ! Amen !

Bởi vì vinh quang và quyền năng thuộc về Chúa.

Những ai chưa được rửa tội trong Danh Chúa,

thì không được ăn

và uống trong bữa tiệc tạ ơn của anh em.

Đây là điều mà Chúa đã phán :

“Không được đưa của thánh cho chó” (Mt 7,6).

Trong chương 9 này, sách Didachè nhắc tới bữa tiệc tạ ơn chỉ dành cho những người đã chịu Phép Rửa nhân danh Chúa Giêsu. Tiệc tạ ơn này là “sự thánh”, do đó chỉ dành cho những “người thánh” (Sancta sanctis). Sự hiệp nhất trong đức tin Phép Rửa là điều kiện cần thiết để “ăn và uống trong bữa tiệc tạ ơn”. Tấm bánh được bẻ ra trong bữa tiệc tạ ơn là dấu chỉ sự hiệp nhất của Hội Thánh.

 

  • Didachè 10,1-7:

 

“Sau khi ăn uống xong, hãy tạ ơn như sau:

Lạy Cha chí thánh, chúng con tạ ơn Cha,

vì Danh thánh Cha đã ghi vào lòng chúng con

và tạ ơn Cha vì sự hiểu biết, niềm tin và ơn bất tử

mà Cha đã mạc khải cho chúng con,

nhờ Đức Giêsu, tôi tớ Cha !

Chúc tụng Cha vinh hiển đến muôn đời ! Amen !

Kính lạy Cha là Chúa cả toàn năng,

Cha đã tạo thành vũ trụ, vì Danh thánh Cha

Chính Cha đã ban cho con cái loài người

của ăn thức uống để họ tạ ơn Cha

Nhưng với chúng con,

Cha đã ưu đãi bằng của ăn thức uống thần linh

của sự sống đời dời, nhờ Đức Giêsu, tôi tớ của Cha !

Chúng con tạ ơn Cha,

vì quyền năng Cha trổi vượt trên tất cả,

Chúc tụng Cha vinh hiển đến muôn đời! Amen !

Lạy Cha, xin nhớ đến Hội Thánh Chúa

Xin giải thoát Hội Thánh khỏi mọi sự dữ,

và kiện toàn trong tình thương của Chúa.

xin quy tụ Hội Thánh từ bốn phương trời

vào trong Nước Chúa

mà Chúa đã chuẩn bị sẵn cho,

Vì Chúa là uy quyền và vinh hiển đến muôn đời ! Amen !

Ước gì ân sủng của Chúa mau đến

và trần gian này qua đi ! Amen !

Hosanna, con nhà Đavít !

Xin Đấng Thánh mau đến !

Ai chưa nên thánh, hãy sám hối !

Maranantha ! Amen !

Hãy để các ngôn sứ tuỳ nghi đọc lời chúc lành”.

Trong chương 10 này, chúng ta thấy niềm tin của tác giả sách Didachè vào Thánh Thể: Thánh Thể thực sự là của ăn của uống thần linh, đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai lãnh nhận. Ngoài ra, chúng ta thấy cấu trúc căn bản của lời kinh tạ ơn trong Didachè như sau: chúc tụng, tạ ơn và cầu xin. Cấu trúc này rất gần với lời chúc tụng sau bữa ăn của người Do thái được gọi là Birkat ha- Mazon.

 

  • Didachè14,1:

 

Ngày của Chúa, anh em hãy tụ họp lại để bẻ bánh và để tạ ơn”.

Trong câu này, chúng ta có được chứng từ về ngày Chúa nhật. Ngày Chúa nhật là ngày Giáo Hội tụ họp lại để cử hành bẻ bánh và tạ ơn, tên gọi của Thánh Thể.

 

Thánh Justinô, người Palestine, là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại để bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các bản văn bản này mà chúng ta biết được về cuộc đời ngài.

Sau năm 150, ngài viết cuốn Hộ giáo thứ nhất (1 Apologie) gửi hoàng đế Antonin nhằm bảo vệ Kitô giáo và các Kitô hữu. Trong chương 67,3-7 của tác phẩm, lần đầu tiên chúng ta có được chứng từ về diễn tiến của việc tập họp ngày chúa nhật của các Kitô hữu:

 

  1. “Trong ngày mà người ta gọi là ngày của Mặt Trời, những người thuộc nhóm chúng tôi,

dù ở thành thị hay thôn quê,

đều hội họp lại ở một nơi.

Người ta đọc lại hồi ký của các tông đồ

và sách các ngôn sứ,

tùy theo thời giờ cho phép.

  1. Đọc sách xong,

vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và khuyến khích

những người hiện diện sống theo các giáo huấn

và gương lành tốt đẹp này.

  1. Sau đó chúng tôi đứng lên,

dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa

cho chính chúng tôi

và cho mọi người khắp trên thế giới,

để xứng đáng trở thành những người công chính

và trung thành tuân giữ lề luật ngay trong cuộc sống hầu đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu.

Sau lời nguyện,

chúng tôi hôn và chúc bình an cho nhau

Rồi như chúng tôi đã nói,

khi đã cầu nguyện xong,

một tín hữu mang bánh và một chén rượu

có pha nước cho vị chủ sự.

Vị chủ sự cầm lấy bánh ruợu,

nhân danh Chúa Con và Thánh Thần,

dâng lời chúc tụng và tôn vinh Chúa Cha

là Chúa tể càn khôn.

Ông đọc một lời tạ ơn dài

về việc Thiên Chúa cho chúng ta

xứng đáng lãnh nhận các hồng ân.

Khi vị chủ sự kết thúc lời nguyện và kinh tạ ơn,

mọi người hiện diện đều đồng thanh đáp : Amen

Sau khi vị chủ sự hoàn tất nghi thức tạ ơn

và toàn dân thưa Amen,

các vị mà chúng tôi gọi là phó tế

phân phát bánh và ruợu có pha nước

đã “trở thành Thánh Thể” (La distribution des choses eucharistiés)

cho mọi người hiện diện hưởng dùng

và đem về cho những người vắng mặt.

 

  1. Những người dư giả sẽ ban phát

cho kẻ khác tùy nhu cầu.

Tất cả những gì được thu nhận

đều được đem đến cho vị chủ tọa ;

ngài sẽ cứu giúp các trẻ mồ côi,

các bà goá bụa

và những ai cần thiết

như đang bệnh hoạn hay vì nhiều lý do khác ;

tắt một lời, ngài giúp đỡ cho những ai cần thiết.

  1. Chúng tôi họp nhau vào mỗi ngày Mặt trời,

bởi vì đó là ngày thứ nhất,

Thiên Chúa rút chất liệu từ bóng tối sáng tạo vũ trụ và cũng là ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng tôi, đã sống lại từ cõi chết” (1 Hộ giáo 67, 3-7)

 

Thánh Justinô đã mô tả lại diễn tiến việc cử hành Thánh Thể vào ngày Chúa nhật và nói lên lý do cử hành trong ngày này, vì ngày Chúa nhật là ngày của sáng tạo và ngày Chúa sống lại. Ngài cũng nhắc đến việc đọc “hồi ký của các tông đồ” (Mémoires des apôtres) có nghĩa là các “Phúc âm” (x. 1 Hộ giáo 66, 3) và sách các ngôn sứ (Ecrits des prophètes) có nghĩa là Cựu ước. Qua việc đọc Cựu ước, Giáo Hội thuở ban đầu muốn loan báo “ngày hôm nay” của việc hoàn tất lời hứa nhờ Đức Kitô, trong Mầu nhiệm Vượt qua của Ngài.

 

Buổi hội họp mà Justinô vừa mô tả vẫn là cấu trúc cơ bản của việc cử hành Thánh Lễ cho tới ngày nay. Thánh Lễ chia làm hai phần, nhưng là một toàn thể thống nhất:

– Tập họp, phụng vụ Lời Chúa với các bài đọc, bài giảng và lời nguyện chung.

– Phụng vụ Thánh Thể với việc hiến dâng bánh rượu, truyền phép với lời kinh tạ ơn và hiệp lễ.

 

Ngoài ra, việc Chúa Giê-su lập bí tích Thánh Thể cũng được nhìn trong tinh thần sống yêu thương và xót thương người khác. Tinh thần tình yêu và đức ái của Thánh Thể được các giáo phụ trong Giáo Hội tiên khởi chú ý tới. Thánh Gioan Kim Khẩu, sinh tại Antiokia vào khoảng năm 349 và ngài được chọn làm giám mục Constantinople năm 397. Trong một bài giảng nổi tiếng, thánh Gioan-Kim khẩu đã làm nổi bật mối liên hệ giữa việc Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ và hiện diện nơi người nghèo khó. Đây chính là linh đạo thánh thể của thánh nhân. Thánh Thể là trường học dạy về tình bác ái. Chúng ta cùng đọc lại bài giảng của ngài:

“Đức Ki-tô đã cho phép chúng ta được no thoả với chính Mình Thánh của Ngài. Chúa đã tự hiến dâng là của lễ. Làm sao chúng ta có thể tự biện minh cho mình, khi chúng ta lại tiếp tục phạm những tội trọng, sau khi chúng ta đã đón nhận của ăn cao quý này? Làm sao chúng ta có thể trở thành sói dữ, sau khi chúng ta đã ăn Chiên Thiên Chúa? Làm sao chúng ta có thể tự nuôi mình với Chiên Thiên Chúa mà kế bên đó chúng ta bắt đầu đi cướp như những con sư tử? Mầu Nhiệm này đòi hỏi chúng ta, không chỉ tránh đi sự cướp bóc mà còn đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện và xa tránh mọi hận thù. Mầu nhiệm này thực sự là mầu nhiệm của bình an. Vì thế, không thể chấp nhận, nếu sau đó chúng ta vẫn theo đuổi sự giàu có. Nếu Chúa Ki-tô không chăm sóc đến chúng ta, thì chúng ta sẽ kiếm được gì, khi chúng ta chỉ chú ý đến tiền bạc của chúng ta, mà lãng quên việc chăm sóc linh hồn của mình… Người Do-thái đã có những ngày lễ để tưởng nhớ đến Thiên Chúa và những điều tốt lành Ngài đã làm cho họ, còn Chúa Ki-tô thì truyền cho bạn cử hành Mầu nhiệm này mỗi ngày. Đừng thắc mắc về Thánh Giá. Thánh Giá chính là vinh dự của chúng ta! Món quà này chính là vẻ đẹp của chúng ta…

Chúng ta đừng chạy chốn và đừng tin rằng, chỉ cần dâng lên trên bàn thờ một chén vàng và đầy đá quý, thì chúng ta sẽ đạt được ơn cứu rỗi của chúng ta, sau khi chúng ta đã đi ăn cướp các goá phụ và các trẻ mồi côi. Nếu con muốn dâng của lễ cách vinh danh, thì  hãy dâng của lễ là chính tâm hồn con, của lễ đó sẽ được hiến tế vì chính tâm hồn con. Tâm hồn con cần phải được làm từ vàng ròng. Nếu ngược lại, thì tâm hồn con sẽ không có giá trị gì cả, mà nó như là một bình rỗng không và như thế thì con có lợi gì từ của lễ đó? Chúng ta luôn chú ý rằng, chúng ta không chỉ dâng lên những chén vàng, mà chúng ta cần dâng chén đó cộng với những gì thật chân thật mà chúng ta đã làm ra và đã sống. Điều đó sẽ giá trị hơn vàng bạc và không có điều gì xấu xa ẩn chứa ở đó cả. Đền thờ không phải là một nơi chỉ được trạm vàng và bạc mà đền thờ là nói các thiên thần tôn vinh Thiên Chúa. Điều đó tương hợp với tâm hồn của chúng ta, vì chỉ với tâm hồn chân thật tràn đầy trong của lễ mới được Thiên Chúa đón nhận. Bàn tiệc ngày xưa cũng không có những chén vàng chén bạc, mà bàn tiệc chỉ có một chén đơn sơ được Chúa sử dụng để trao ban Máu Thánh của chính Ngài cho các môn đệ. Thật vậy, chén này cao quý biết bao nhiêu, vì chén đó đầy tràn Thánh Thần Chúa.

“Con có ước muốn tôn vinh Mình Thánh Chúa Ki-tô không ? Vậy thì con đừng rước Mình Thánh Chúa Kitô để rồi lại khinh dể Ngài trong các chi thể của chính Ngài, tức trong những người nghèo khó, những người không có gì che thân mà con thấy ngoài đường.

Con đừng tôn vinh Ngài trong đền thờ với những lụa là, rồi sau đó lại bỏ mặc Ngài ở ngoài đường đang lúc cóng buốt và trần trụi. Đức Kitô được lợi lộc gì từ bàn thờ đầy dẫy những chén vàng giữa lúc Ngài đang chết vì đói khát nơi những người nghèo khó ? Trước hết, con hãy cho những người đói khó được ăn no đủ, rồi sau đó còn lại gì hãy trang hoàng bàn thờ. Con sẵn lòng dâng cho Ngài chén thánh bằng vàng, rồi lại từ chối không chịu cho Ngài một ly nước lã hay sao ? Bàn thờ Chúa cần gì phải trang hoàng bằng vàng, trong lúc con không chịu dâng cho Ngài một ít vải cần thiết ? Vì thế, trong khi con trang hoàng nơi phượng tự, thì cũng đừng đóng chặt cửa lòng trước người anh em đang đau khổ của con. Họ là đền thờ còn sống động và quý giá hơn nơi phượng tự của con. Thiên Chúa không cần đến chén bằng vàng, nhưng cần đến tâm hồn bằng vàng” (Kommentar zum Evangelium des Hl. Matthaeus, Bài giảng 50,3-4).

 

Chúng ta còn đọc được những lời thật đẹp của thánh Tô-ma thành Aquino viết về bí tích Thánh Thể cao trọng:

 

“Con Một Thiên Chúa, khi muốn cho chúng ta tham dự vào thần tính của Người, đã nhận lấy bản tính của chúng ta để một khi làm người, Người làm cho con người trở thành “thiên chúa”.

 

Ngoài ra, Người nhận lấy sự gì nơi chúng ta, thì Người ban lại tất cả để cứu độ chúng ta. Quả vậy, trên bàn thờ thập giá, Người đã dâng mình làm của lễ cho Thiên Chúa Cha để hòa giải chúng ta, và Người đã đổ máu mình ra làm giá chuộc và giếng rửa, để một khi được giải thoát khỏi cảnh nô lệ khốn nạn, chúng ta sẽ được tẩy sạch mọi tội lỗi.

Để chúng ta ghi nhớ hồng ân cao cả dường ấy, Người đã để lại mình Người làm của ăn và máu Người làm của uống cho các tín hữu rước lấy, dưới hình bánh và hình rượu. Cao quý và lạ lùng thay bữa tiệc của Chúa, bữa tiệc mang lại ơn cứu độ và đầy dịu ngọt! Quả thật, còn gì quý giá hơn bữa tiệc ấy? Ở đó không phải là thịt bê thịt dê trong luật cũ nữa, mà là chính Đức Ki-tô, Thiên Chúa thật, được dọn ra cho chúng ta rước lấy. Còn gì kỳ diệu hơn bí tích này?

 

Cũng không bí tích nào đem lại lợi ích dồi dào hơn. vì nhờ bí tích này, tội lỗi được tẩy sạch, nhân đức được gia tăng, và tâm hồn được chan chứa mọi ân huệ thiêng liêng. Bí tích này được tiến dâng trong Hội Thánh để cầu cho kẻ sống và kẻ chết, hầu sinh ích lợi cho mọi người, vì đã được lập ra để cho mọi người được ơn cứu độ.

 

Cuối cùng, không ai đủ sức diễn tả sự ngọt ngào của bí tích ấy, dù đã cảm nếm được sự dịu dàng thiêng liêng ngay tại nguồn mạch. Tình yêu bao la tuyệt với mà Đức Ki-tô đã tỏ ra trong cuộc thương khó của Người lại được kính nhớ trong bí tích này.

 

Vậy, để ghi khắc sâu hơn tình yêu bao la ấy vào lòng các tín hữu, thì trong bữa ăn tối cuối cùng, sau khi mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ, lúc sắp qua khỏi thế gian này mà về cùng Chúa Cha, Đức Ki-tô đã lập bí tích này để làm kỷ vật muôn đời ghi nhớ cuộc thương khó của Người, để hoàn tất những hình ảnh xưa tiên báo ; đó là phép lạ lớn nhất trong các phép lạ Người làm ; đồng thời Người cũng lưu lại niềm an ủi đặc biệt cho những kẻ buồn phiền vì Người vắng bóng” (trích từ kinh Sách lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô).

 

Trở về với bài Tin Mừng, chúng ta thấy sau khi Chúa Giê-su lập phép Thánh Thể, thì Ngài tiên báo việc thánh Phê-rô sẽ chối Chúa. Bối cảnh được thay đổi. Mác-cô diễn tả như sau: “Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu” (Mc 14,26).

 

Như thế, bữa tiệc vượt qua được kết thúc với việc hát Thánh Vịnh. Theo Jakob Kremer, thì Chúa và các môn đệ hát các thánh vịnh 117 và 118 là phần thứ hai của loạt thánh vịnh Hallel – ca tụng Chúa. Có thể Chúa Giê-su hát xướng và các môn đệ hát lời đáp (antiphon) với lời Halleluja. Trong các thánh vịnh ca tụng có các lời:

 

“Muôn nước hỡi, nào ca ngợi CHÚA,

ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!” (Tv 117,1).

 

“Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ,

muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118,1).

 

Trong thời của Chúa Giê-su, các lời ca tụng này được hiểu trong ý nghĩa chỉ về Đấng Me-sia và trong ý nghĩa cánh chung. Trong bối cảnh của các bài tường thuật về cuộc khổ nạn, các lời ca thánh vịnh được Chúa Giê-su hát còn mang một ý nghĩa đặc biệt: Chúa Giê-su hát lời thánh vịnh ngay trước cái chết của Ngài với niềm hy vọng về sự chiến thắng của Thiên Chúa trước sự chết.

 

Sau khi bữa tiệc Vượt Qua kết thúc với các lời hát thánh vịnh, thì trời bắt đầu bước vào nửa đêm. Chúa Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu trong đêm trăng tròn.

 

Núi Ô-liu là địa danh được nhắc đến nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô và cả Cựu Ước cũng nhắc tới. Chúng ta đọc lời giải thích của cha Nguyễn Công Đoan: “Núi Ô-liu đã được nhắc đến trong chuyện vua Đavit: khi hoàng tử Ap-sa-lom làm phản, vua Đavit ra lệnh cho triều đình và quân đội rút khỏi Giê-ru-sa-lem, “Vua Đa-vit lên dốc núi Ô-liu, vừa đi vừa khóc” (2S 15, 30). Hôm trước khi Chúa vào Giê-ru-sa-lem, tới triền núi Ô-liu thì Chúa cỡi lừa con, dân chúng cầm ngành lá ra đón, tung hô Chúa:”Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavit, tổ phụ chúng ta” (Mc 11,10). Sau đó, một hôm từ Đền Thờ đi ra, Chúa Giê-su loan báo Đền Thờ sẽ bị phá hủy, rồi “lúc Chúa Giê-su ngồi trên Núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ, các  ông Phê-rô, Gia-cô-bê, Gioan và An-rê hỏi riêng Người: Xin Thầy nói cho chúng con biết: bao giờ các sự việc đó xảy ra…” (Mc 13,1-4). Chúa bắt đầu nói với các  ông về số phận của Giê-ru-sa-lem và cả về ngày Chúa đến phán xét. Cảnh này lại gợi tới sách E-de-kiên, chương  11 kể thị kiến Vinh Quang Thiên Chúa cất lên khỏi thềm Đền Thờ, phán xét Giê-ru-sa-lem rồi “lên khỏi thành và dừng lại trên núi ở phía Đông của thành” (tức là núi Ô-Liu). Như vậy ở chương 11 dân chúng đón rước ở núi Ô-liu và tung hô Chúa Giê-su là triều đại vua Đavit, ở chương 13 thì Chúa Giê-su ngồi trên núi Ô-Liu phán xét Giê-ru-sa-lem, còn ở chương 14 thì Chúa Giê-su lại như vua Đavit bị mưu phản đi lên núi Ô-liu”.

 

Tại núi Ô-liu và trong lúc nửa đêm, Chúa Giê-su trải lòng với các môn đệ. Ngài nói: “Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”. Sau lời này của Chúa Giê-su, Mác-cô kể cho độc giả hình ảnh của Phê-rô với tuyên bố nảy lửa của ông: “Ông Phê-rô liền thưa: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.”30 Đức Giê-su nói với ông: “Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần.”31 Nhưng ông Phê-rô lại nói quả quyết hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy” (Mc 14,29-31).

 

 

  • Thánh thi giờ kinh sách lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô

 

Ngày trọng đại, nào reo vui phấn khởi,

Tự đáy lòng, hãy trổi khúc tri ân,

Con người cũ nhường ngôi cho người mới,

Mới cả suy tư, lời nói, việc làm.

 

Ta nhắc nhở bữa Tiệc Ly đêm ấy,

Chúa đồng bàn cùng toàn thể anh em,

Và theo đúng luật cha ông truyền lại,

Ăn thịt chiên cùng với bánh không men.

 

Họ suy nhược: Chúa nuôi bằng Thịt Chúa,

Họ buồn lo: cho uống rượu Máu Người :

“Chén bửu huyết tay Thầy trao cho đó,

Thầy xin mời tất cả nhắp trên môi.”

 

Thế là Chúa đã lập ra Thánh Lễ,

Trao quyền cho hàng tư tế cử hành,

Cho chính họ được nuôi bằng Thánh Thể,

Và mỗi ngày cùng nuôi dưỡng sinh linh.

 

Bánh thiên sứ, nay phàm nhân hưởng thụ,

Bánh bởi trời đã thay thế man-na.

Ôi nhiệm lạ, kẻ nghèo hèn tôi tớ

Ðược nuôi bằng Thịt Máu Chúa thiên toà !

 

Cùng thờ lạy Ba Ngôi một Thiên Chúa,

Xin rủ thương thăm viếng kẻ phàm trần,

Và đưa dẫn về trời, nơi Chúa ngự

Giữa muôn vàn ánh sáng, chốn bình an.

 

 

  • Tham khảo

 

– Cha Giulio Michelini, bài suy niệm thứ 3 trong tuần tĩnh tâm của Đức Thánh Cha là “Bánh và thân thể, rượu và máu”. Hồng Thuỷ chuyển ngữ.

– Fx. Vũ Phan Long OFM., Các bài Tin Mừng Mác-cô dùng trong Phụng Vụ, NXB. Tôn Giáo, 2015.

– William Barclay, Chú giải Tin Mừng Mác-cô, ebook.

– Lm. Antôn Nguyễn Đức Khiết. Tư tưởng các Giáo Phụ về mầu nhiệm Thánh Thể. http://www.simonhoadalat.com

– Johannes, Chrysostomus (+407), Kommentar zum Evangelium des Hl. Matthaeus, Generiert von der elektronischen BKV von Gregor Emmenegger.

– Vũ Văn An, Thần Học về cuộc khổ nạn của Đức Giê-su.

– Kremer J., Das Aergenis des Kreuzes, KBW. Verlag, Stuttgart 1969.

– Nguyễn Công Đoan SJ., Trình thuật cuộc thương khó theo thánh Mác-cô. Giê-ru-sa-lem, mùa Chay 2015.